THƯƠNG, ĐAO
Võ Việt đầy ắp tinh hoa của biết bao môn phái, chiêu thức, võ khí.
Điểm độc đáo của U Linh Thương là có tầm sát thích cao, đường thương đâm thẳng, trực diện với kình lực lớn, kết hợp các động tác uyển chuyển, nhu cương hòa diệu
U Linh Thương Pháp của Lý Thái Tổ Lý Công Uẩn
Thương được mệnh danh là vua của trăm binh khí dài, là sức mạnh tuyệt đối của ba quân khi xung trận và cũng là vũ khí yêu thích của rất nhiều chiến tướng nổi danh trong lịch sử thế giới. Từ Triệu Tử Long vang danh trong trận Đương Dương – Trường Bản cho đến Phạm Ngũ Lão vung giáo quét quân Nguyên Mông khỏi bờ cõi, hay như đoàn quân nón nhọn giáo dài của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản mãi vẫn nằm trong tâm trí chúng ta.
Lý Thái Tổ của Việt Nam cùng với Tống Thái Tổ của Trung Quốc là hai người không cùng thời đại nhưng lại có sự tương đồng trong bản lĩnh chiến trận và việc cai trị một cách đáng ngạc nhiên. Cả hai đều là Hoàng đế khai quốc, đều cai trị thiên hạ bằng sự nhân từ nổi tiếng của mình. Cả hai cũng đều là tướng quân với bản lĩnh võ công đứng đầu thiên hạ. Và nhờ võ công đó mà cả hai đã tạo nên những đạo quân tinh nhuệ bách thắng để thống nhất sơn hà, lập ra nghiệp lớn ngàn năm.
Nếu như Tống Thái Tổ để lại côn pháp và Trường quyền còn nổi danh đến ngày nay thì Lý Thái Tổ cũng để lại bộ U Linh Thương Pháp. Tương truyền lúc bấy giờ, các thế lực phản loạn nổi lên khắp nơi, dân chúng lầm than, khổ sở. Lý Công Uẩn nhiều phen đích thân đi dẹp loạn. Nhưng do địa hình đất nước núi rừng thâm u, tịch mịch, các trận chiến thường diễn ra vào lúc chạng vạng nên với những bài thương thông thường, khả năng đánh tan quân phiến loạn rất thấp.
Bản thân Lý Thái Tổ là một cao thủ dùng thương nên đã sáng tạo ra bài thảo U Linh Thương rồi tập cho binh lính. Điểm độc đáo của U Linh Thương là có tầm sát thích cao, đường thương đâm thẳng, trực diện với kình lực lớn, kết hợp các động tác uyển chuyển, nhu cương hòa diệu. Điều đó thích hợp với lối đánh áp sát cận chiến, phù hợp với thể hình thấp bé của đa số binh sĩ triều Lý thời bấy giờ.
Dưới đây là lời giới thiệu về U Linh Thương Pháp:
Sa La thành tẩu mã
Hô lục tướngThúc Sa La thành thất phược binhĐằng đằng khí trận
Loạn mã tung thươngKhốc lược truy hình
Phong linh ảnh địa.
Hô lục tướngThúc Sa La thành thất phược binhĐằng đằng khí trận
Loạn mã tung thươngKhốc lược truy hình
Phong linh ảnh địa.
Dịch nghĩa:
Thành Sa La ngựa phi nhốn nháoPhất cờ hiệu, sáu mặt dồn binh
Thành Sa La vây làm bảy bận
Khí trận truyền khiếp nhược tình quân
Người – ngựa, dày nhau cơn bão giáo
Tìm đường thoát nạn, địch theo chân
Thành Sa La vây làm bảy bận
Khí trận truyền khiếp nhược tình quân
Người – ngựa, dày nhau cơn bão giáo
Tìm đường thoát nạn, địch theo chân
Ngã tối, chiêng khua bày đất trận. .
Nay vẫn đang lưu truyền một bài Đại Đao (hay còn gọi là Siêu) tương truyền do Nguyễn Huệ sáng tạo có tên là Siêu Xung Thiên
Siêu Xung Thiên của Nguyễn Huệ
Những Hoàng đế hay các tướng dũng mãnh vô địch của Việt Nam hay Trung Quốc đều rất ưa thích đại đao. Hoàng đế Quang Trung cũng vậy. Theo sử sách, cuộc đời binh nghiệp của vị chiến thần bách thắng này luôn gắn liền với thanh Ô Long đao đầy huyền bí. Tương truyền Nguyễn Huệ là người có võ công cao cường. Nhờ thân vóc cao lớn cũng như nội lực mạnh mẽ, nên ông chuyên về sử dụng đao ngoài những môn võ khác.
Đến nay thế gian vẫn đang lưu truyền một bài Đại Đao (hay còn gọi là Siêu) tương truyền do Nguyễn Huệ sáng tạo có tên là Siêu Xung Thiên. Bài Siêu này có bài giới thiệu bằng chữ Hán, tạm dịch như sau:
Bái tổ
Chọc trời đề đao chém ngược sauGió nổi vờ chạy quỷ thần kinhNgoái đầu nép cây, tiến lên bằng Phụng TấnChém ngang, trung bình tấn vững như trâuChém lên như rồng, chặt xuống như hổNép dấu trốn nằm kín như chim sợ tiếngRớt ngựa bay xuống lập tức đâm nhanhBốn phía cùng ngồi xuống, về nẻo sốngĐề đao đứng bái tổ như ban đầu.
Các chiêu thức của (bài) Lôi Long Đao đao có uy lực rất lớn, vô cùng ảo diệu, khiến đối phương trở tay không kịp
Lôi Long đao của Đô đốc Võ Văn Dũng
Không chỉ Nguyễn Huệ để lại bài Siêu Xung Thiên, một trong những tướng lĩnh giỏi nhất của ông, Đô đốc Võ Văn Dũng cũng để lại di sản là một bài đao còn truyền lại đến ngày nay, tên là Lôi Long đao. Bài đao này là 1 trong 18 bài võ quy chuẩn của võ cổ truyền Việt Nam hiện nay.
Theo lời võ sư Đông Hải, huấn luyện viên trưởng võ cổ truyền tỉnh Bình Định, cũng là người truyền ra bài Lôi Long đao này hiện nay thì: “Tuyệt kỹ đao pháp “Lôi Long đao” do đô đốc Võ Văn Dũng nghiên cứu chiêu pháp rồi soạn ra vào mùa thu năm 1768 tại huyện Tây Sơn (Bình Định). Sau này, bài “Lôi Long đao” được tìm thấy trong cuốn “Tây Sơn danh tướng bí kíp mộ hồn thao” của Nguyễn Trung Như, một danh tướng nhà Tây Sơn, chép lại. Trải qua nhiều thế kỷ, cuốn cổ thư võ học này được lưu giữ tại chùa Lộc Sơn. Sau này, cố thượng tọa Thích Tịnh Quang truyền dạy lại cho tôi. Rồi tôi đã dạy lại cho học trò xuất sắc nhất của mình là võ sư Trần Duy Linh. Và cũng chính bài đao này đã mang lại cho võ sư Linh nhiều huy chương vàng giải võ cổ truyền toàn quốc”.
Theo võ sư Hải, bài Lôi Long đao này có uy lực rất lớn, vô cùng ảo diệu, khiến đối phương trở tay không kịp. Lôi Long đao vận dụng lối đánh linh hoạt, các loại vũ khí khác rất khó chống đỡ. Lôi Long đao có đặc điểm là chế ngự trực tiếp, trảm phạt vào đôi tay của đối thủ cầm thương, cầm kiếm. Khi ấy, ngọn kiếm, đường thương dẫu có linh hoạt đến đâu cũng không thể bù lại được.
Lôi Long đao còn thường sử dụng những đòn thế “gậy ông đập lưng ông”, mượn sức đối thủ để hạ đối thủ. Người dùng đao có những động tác chém dụ, buộc đối phương phải gạt đỡ rồi nhân cơ hội đối phương sơ hở, bị đánh lạc hướng để đoạt mạng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét